Một người con đã xây dựng, quản lý thửa đất cha mẹ để lại trong hơn 20 năm. Khi chia thừa kế, Tòa công nhận quyền sử dụng đất cho tất cả các đồng thừa kế, nhưng buộc các đồng thừa kế khác phải thanh toán cho người này một khoản tiền tương ứng với giá trị công trình đã xây dựng.
Câu hỏi 11: Quyền sử dụng đất có được để lại thừa kế không?
Theo Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015 quy định Quyền thừa kế, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, trong đó có quyền sử dụng đất. Khi cá nhân chết mà có quyền sử dụng đất hợp pháp thì quyền đó được để lại cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật (Điều 650 BLDS 2015).
Thể hiện qua Bản án số 46/2019/DS-PT của TAND tỉnh Quảng Ngãi, Tòa công nhận quyền thừa kế của các con đối với thửa đất mà cha mẹ để lại theo di chúc hợp pháp. UBND huyện được yêu cầu cấp giấy chứng nhận cho những người thừa kế.
Câu hỏi 12: Nếu người để lại di sản chưa có sổ đỏ, quyền sử dụng đất có được coi là di sản thừa kế không?
Trả lời:
Có. Theo Điều 100 Luật Đất đai 2013 quy định Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nay là Điều 137 Luật Đất đai 2024 quy định: Trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà chưa có giấy chứng nhận nhưng có giấy tờ hợp lệ (như giấy khai hoang, biên lai nộp thuế, quyết định giao đất...) thì vẫn được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Khi đó, đất này được xem là di sản thừa kế.
Thể hiện qua Bản án số 32/2018/DS-PT của TAND tỉnh Long An: Cha mẹ sử dụng đất từ năm 1980, chưa có sổ đỏ, có biên lai thuế đất hằng năm. Sau khi cha mẹ mất, Tòa công nhận đây là di sản thừa kế hợp pháp và chia cho các con theo pháp luật.
Câu hỏi 13: Nếu một người chiếm giữ toàn bộ đất của cha mẹ để lại, các đồng thừa kế khác có quyền khởi kiện không?
Trả lời:
Có. Theo Điều 651 BLDS 2015 quy định Người thừa kế theo pháp luật: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha mẹ, con. Tất cả những người này đều có quyền ngang nhau đối với di sản. Nếu một người chiếm giữ toàn bộ đất mà không có sự đồng ý của những người khác thì các đồng thừa kế có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản.
Thể hiện qua Bản án số 114/2020/DS-PT của TAND TP.HCM: Sau khi cha mẹ mất, một người con chiếm toàn bộ thửa đất và đứng tên làm sổ đỏ. Các anh chị em khác khởi kiện yêu cầu chia di sản. Tòa án tuyên hủy một phần giấy chứng nhận và chia đất cho các đồng thừa kế theo quy định.
Câu hỏi 14: Nếu hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế đất đai, có còn quyền yêu cầu chia di sản không?
Trả lời:
Không. Theo Điều 623 BLDS 2015 quy định Thời hiệu thừa kế: Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản (đất đai) kể từ thời điểm mở thừa kế. Sau thời hạn này, người đang chiếm hữu sẽ trở thành chủ sở hữu theo quy định về xác lập quyền sở hữu do chiếm hữu.
Thể hiện qua Bản án số 89/2017/DS-PT của TAND tỉnh Tiền Giang, các con khởi kiện đòi chia đất sau 35 năm kể từ khi cha mất. Tòa tuyên bác yêu cầu vì đã hết thời hiệu khởi kiện theo Điều 623 BLDS 2015.
Câu hỏi 15: Nếu một trong các đồng thừa kế đã tôn tạo, xây dựng trên đất thì khi chia thừa kế được tính thế nào?
Theo Điều 612 BLDS 2015 quy định di sản bao gồm tài sản riêng của người chết và phần tài sản của người chết trong tài sản chung. Khi chia di sản, nếu một đồng thừa kế đã bỏ công sức tôn tạo, xây dựng (như xây nhà, rào đất, trồng cây lâu năm...) thì Tòa án thường xem xét công sức bảo quản, duy trì di sản và trích một phần giá trị để hoàn trả cho họ.
Thể hiện qua Bản án số 71/2019/DS-PT của TAND tỉnh Đồng Nai: Một người con đã xây dựng, quản lý thửa đất cha mẹ để lại trong hơn 20 năm. Khi chia thừa kế, Tòa công nhận quyền sử dụng đất cho tất cả các đồng thừa kế, nhưng buộc các đồng thừa kế khác phải thanh toán cho người này một khoản tiền tương ứng với giá trị công trình đã xây dựng.