Đêm đó có một ông lão ngà ngà say, tuổi chừng 58, râu rìa, miệng ngậm ống điếu to như mắt trâu, trễ hẳn sang một bên mép. Lão mặc bộ quần áo lụa màu vàng nhạt, với áo rộng thùng thình, nút áo được gài bằng nút thắt vải, quần ống loa nhìn như ông chủ lớn. Lão cao to kèm thêm cái bụng lớn, cỡ hai vòng tay của Ngọc ôm mới xuể.
Chương 6: Nguyên tắc Tam Hoàng
Câu chuyện của lão Lý lan khắp Chợ Lớn nhanh như dịch bệnh. Nhanh tới mức chỉ một buổi chợ sáng, từ đầu đường Trần Hưng Đạo đến tận bến Bình Đông, ai cũng nghe sự việc của lão. Không ai dám hỏi, không dám bàn tán công khai, chỉ có những tiếng thì thầm kề sát vô tai:

- Đó, ngộ nói rồi mà… Tam Hoàng đã để ý tới ai thì người đó coi như xong.
- Suỵt! Nhỏ thôi, muốn chết à?
Nỗi sợ bị bắt cóc lan truyền của lão Lý nhanh như điện. Từ đó, chẳng còn ai dám từ chối nộp tô. Bất kể tiệm lớn hay nhỏ, đến kỳ là tự giác đem phong bì đến điểm hẹn. Không ai đợi bị nhắc, không ai để bị kêu vì không muốn lặp lại bi kịch nhà họ Lý.
Dòng tiền bảo kê chảy vào Tam Hoàng đều đặn như nước từ trăm mạch suối ngầm đổ về một hồ lớn. Nhưng với Hội, số tiền đó chỉ là mặt nổi của tảng băng. Mặt chìm là từ lầu xanh, từ thuốc phiện, là dòng vàng chảy ào ạt về cho Tam Hoàng bất tận.
Lầu xanh Chợ Lớn thời ấy mọc lên như nấm sau cơn mưa rào. Từ kỹ viện hạng sang chỉ để đón quan Tây, đại gia, tới nhà thổ tầm trung nhằm phục vụ công chức, tiểu thương… rồi những ổ nhền nhện tồi tàn cho phu khuân vác, thợ thuyền. Tất cả đều nằm dưới sự kiểm soát của Tam Hoàng.
Tam Hoàng không trực tiếp quản lý lầu xanh mà để các tú bà hay chủ chứa cai quản. Mỗi tháng từng nhà chứa phải cống nạp những khoản tiền được quy định trước. Dù mưa gió thất bát ế ẩm hay bất kỳ sự cố nào xảy ra thì Tam Hoàng vẫn cứ thế mà “lượm thóc”.
Nhà chứa ban đêm thắp đèn lồng đỏ, rèm lụa lay nhẹ trong gió, tiếng đàn tỳ bà hòa với tiếng cười nói, chào mời khách lả lơi. Những cô gái bán hoa phần lớn là nạn nhân của các đường dây buôn người. Họ bị lừa bán từ Trung Kỳ, từ Bắc Kỳ, thậm chí từ Trung Hoa đại lục xa xôi, với nhiều lời hứa hẹn:
- Vô Chợ Lớn làm việc nhẹ tiền nhiều.
Nhưng khi đặt chân đến nơi, họ bị giam cầm, bị ép tiếp khách. Kẻ chống cự sẽ nhận những trận đòn thừa chết thiếu sống. Họ bị nhốt trong những căn phòng âm u, tường loang lổ ẩm mốc, cửa khóa trái. Tại đó, ánh sáng chỉ vừa đủ soi gương mặt hốc hác của nạn nhân.
Bỏ trốn ư! Nếu bị bắt lại thì hình phạt cực kỳ tàn độc. Bởi bên trong những ánh đèn đỏ ấy, bóng Tam Hoàng luôn phủ kín.
***
Ngọc, cô gái quê Bắc Kỳ, một trong những mảnh đời nghiệt ngã, bị lừa bán vào lầu xanh. Không chịu cảnh làm gái buôn phấn bán hoa, cô ấy đã trốn nhưng không thoát khỏi bàn tay đầy lông lá của Tam Hoàng, đành cam chịu số phận.

Năm ấy, Hà Nội còn mờ sương những buổi sớm. Hồ Tây lặng như một tấm gương cũ, soi bóng những mái nhà lợp rạ xám xịt nép mình bên bờ nước. Trong một căn nhà nhỏ gần làng Nghi Tàm, có một cô gái vừa tròn mười tám tuổi, tên là Ngọc.
Ngọc đẹp mặn mà nhưng không kêu sa. Nước da nàng trắng, đôi mắt to, sâu và buồn, mái tóc đen dày thường được tết gọn sau gáy. Cái đẹp ấy không rực rỡ, nhưng đủ khiến người ta phải trầm trồ. Mỗi khi Ngọc ra hồ gánh nước, mấy bà bán hàng vẫn tặc lưỡi:
– Con bé này mà được trang điểm, lụa là thì khỏi phải nói…
Nhưng Ngọc sinh ra trong gia đình nghèo.
Cha Ngọc là thợ khảm trai, tay nghề có tiếng một thời, nay già yếu, mắt mờ, nhưng vẫn ngồi cả ngày bên hiên để làm việc nuôi bốn miệng ăn. Mẹ Ngọc quanh năm đau lưng, thở dốc, chỉ đủ sức trông hai đứa em thơ. Lúc này Ngọc cũng phụ được vài đồng bạc lẻ từ việc giặt quần áo thuê, gánh nước mướn.
Ngọc có người yêu tên Lâm, con trai một gia đình làm ruộng ở ven đê Nhật Tân. Lâm ít nói, hiền lành, mỗi lần gặp Ngọc chỉ đứng lúng túng, hai tay đan vào nhau không nói nên lời, nhưng ánh mắt đã nói lên tất cả. Họ chưa dám hứa hẹn điều gì lớn lao, chỉ thầm nghĩ mai này khi gia đình khá hơn, sẽ xin phép cha mẹ nên duyên.
Nhưng cái nghèo không chờ ai.
Một buổi chiều cuối đông năm 1930, có một người đàn bà tự xưng là bà Hai, ăn nói ngọt như mía lùi tìm tới nhà nói chuyện với gia đình Ngọc. Bà ta bảo đang tìm người giúp việc cho một gia đình giàu có trong Chợ Lớn.
– Con bé chỉ lo cơm nước và quét dọn. Mỗi tháng gửi về cho nhà mười đồng bạc Đông Dương.
Mười đồng. Với nhà Ngọc đó là cả một gia tài.
Đêm ấy, Ngọc không sao ngủ được, thao thức mãi khi nghe cha mẹ nói chuyện ngoài gian nhà giữa. Cha Ngọc thở dài:
– Con Ngọc đi rồi ai đỡ đần cho mẹ mày?
Giọng mẹ Ngọc khàn khàn:
– Mười đồng Đông Dương cơ!
Cha Ngọc im lặng hoài lâu:
– Thôi để nó đi may ra còn đổi đời. Ở nhà chết đói cả lũ...
Sáng hôm sau, Ngọc gói ghém vài bộ quần áo cũ, buộc lại bằng mảnh vải nâu. Trước khi đi, Lâm đứng đợi ngoài ngõ, giọng run buồn:
– Khi nào Ngọc về?
Ngọc cười buồn:
– Khi có đủ tiền cho thầy u đỡ khổ em về.
Chuyến tàu vào Nam dài như vô tận. Ngọc ngồi bó gối, nhìn những cánh đồng lùi lại phía sau cửa sổ. Cô không biết rằng, mỗi vòng bánh xe lăn qua là một đoạn đời cũ bị cắt đứt.
Rồi Chợ Lớn đón Ngọc với khí trời nắng gắt, mùi mồ hôi, mùi cá khô, mùi thuốc bắc và tiếng người nói ồn ào bằng đủ thứ tiếng mà cô không hiểu. Bà Hai đưa Ngọc vào một con hẻm sâu, tới căn nhà có nhiều phụ nữ ăn mặc loè loẹt, mặt thoa trét son phấn.
Đêm đó, Ngọc mới biết mình bị bán.
Căn phòng hẹp, đèn đỏ hắt ánh sáng quái dị lên tường. Một người đàn bà khác, son phấn dày cộp, nhìn Ngọc từ đầu đến chân rồi cười nhạt:
– Con bé này được giá đấy.
Ngọc lùi lại, tim đập dồn dập.
– Bà nói gì? Cháu đến để làm người ở…
Tiếng cười bật ra, khô khốc.
– Ở đây chỉ có một thứ việc thôi, con ạ.
Đêm đó có một ông lão ngà ngà say, tuổi chừng 58, râu rìa, miệng ngậm ống điếu to như mắt trâu, trễ hẳn sang một bên mép. Lão mặc bộ quần áo lụa màu vàng nhạt, với áo rộng thùng thình, nút áo được gài bằng nút thắt vải, quần ống loa nhìn như ông chủ lớn. Lão cao to kèm thêm cái bụng lớn, cỡ hai vòng tay của Ngọc ôm mới xuể.
Thấy Ngọc lão cười hềnh hệch, tuông một tràng tiếng Hoa dài ngoằng, đôi mắt đâm đâm nhìn Ngọc từ đầu tới chân như muốn nuốt ngay vô bụng. Ngọc trố mắt. Biết Ngọc không hiểu, lão buông câu tiếng Việt lơ lớ:
- Ngộ khoái em gái lày!
Nói rồi lão xấn tới ôm ngay Ngọc vào lòng. Quá ngỡ ngàng, Ngọc tung người thoát khỏi bàn tay hộ pháp của lão, bỏ chạy ngay trong đêm. Cô lao ra khỏi căn nhà ấy, chân trần, tóc xõa, chạy qua những con đường lạ lẫm, không dám ngoái đầu lại.
Những ngày sau đó, Ngọc trốn trong các mái chòi rách nát của người dân làm ruộng ven Chợ Lớn. Ban ngày, cô giúp mọi người nhổ cỏ, cuốc đất để đổi lấy chén cơm nguội. Ban đêm, cô cuộn mình ngủ trên đống rơm, lòng không nguôi nhớ về gia đình, người yêu.
Nhưng Chợ Lớn không dễ thoát.
Một buổi chiều, khi Ngọc đang rửa tay bên mương nước, có mấy người đàn ông lạ mặt xuất hiện. Cô chưa kịp né mặt thì đã bị giữ chặt, một giọng lạnh tanh:
– Con nhỏ này trốn giỏi thật!
Ngọc bị đưa về. Lần này, không còn những lời ngọt ngào, mộng mị dụ dỗ nữa.
Người của Tam Hoàng là một đàn ông trung niên, mắt nhỏ, môi mỏng. Ông ta không đánh Ngọc trước mặt người khác, chỉ nói chậm rãi:
– Ở đây, sống hay chết là do mình chọn, nếu trốn chỉ có đường chết.
Những ngày sau đó, Ngọc sống trong sợ hãi triền miên. Cô không còn khóc thành tiếng, chỉ cắn chặt môi cho đến bật máu. Có lúc, trong cơn kiệt sức, cô nghĩ đến cha mẹ, đến hai đứa em, đến Lâm. Nếu mình chết, họ sẽ ra sao?
Cuối cùng, Ngọc buông tay.
Cô chấp nhận sống, không phải vì muốn mà vì không còn lựa chọn. Mỗi tối, khi tới giờ tiếp khách, Ngọc ngồi trước gương, nhìn gương mặt mình dần trở nên xa lạ. Cái đẹp của cô vẫn còn đó, nhưng ánh mắt đã đổi khác, nó trống rỗng và mệt mỏi.
Những năm sau, Ngọc bị chuyển từ nhà chứa này tới nhà thổ kia, sống lây lất để làm việc cật lực. Có đêm cô tiếp tới tám người khách, dù nhục nhả ê chề nhưng vẫn cắn răng dành dụm từng đồng bạc để gửi về quê. Trong thư, cô chỉ viết “Con làm ăn cũng tạm, cha mẹ giữ gìn sức khỏe…”.
Đêm nào rảnh, Ngọc lại nhìn về phương Bắc. Cô nhớ Hồ Tây, nhớ mùi sương sớm, nhớ con đường đất nơi Lâm từng đứng chờ.
- Ráng vài năm nữa họ cho chị em mình về - người chị cùng phòng an ủi Ngọc.
***
Hội không trực tiếp "săn hàng", nhưng bắt tay chặt chẽ với các băng nhóm chuyên làm việc này. Khi có “hàng”, hội cung cấp chỗ an toàn để giam giữ nạn nhân, hỗ trợ vận chuyển khi cần. Và điều quan trọng nhất là làm sao để không có vụ nào bị cảnh sát phanh phui ra công chúng.
Đổi lại, Tam Hoàng nhận 30% mỗi cô gái bán được, tức khoảng 100–150 đồng Đông Dương. Số tiền này là một khoản lợi nhuận khổng lồ thời đó. Còn cảnh sát đương nhiên cũng có phần, đó là lý do không có vụ án nào được phá dù có nhiều thi thể những cô gái được tìm thấy. Người dân xì xầm:
- Cô này bị đánh tới chết vì không chịu tiếp khách.
Mỗi tháng có hàng chục cô bị đẩy vào chốn lầu xanh. Chỉ riêng việc hưởng lợi từ gái bán hoa mà Tam Hoàng đã kiếm vài chục ngàn đồng. Số tiền này đủ làm chi phí vận hành cho cả đội quân trong bóng tối.
Nỗi thống khổ tột cùng của những cô gái là không phải khi bị bán đi, mà là không có lối thoát. Họ không có đường về, không một xu dính túi, không biết kêu cứu ở đâu, kêu cứu tới ai… Nếu họ còn nhan sắc thì còn được sử dụng, khi tàn phai thì bị đẩy ra đường, lúc đó mới thoát.
Họ luôn bị giam trong phòng ẩm thấp, bị ép mua vui đêm này qua đêm khác. Nhiều cô cố bám trụ được vài năm rồi gục ngã vì bệnh tật. Lầu xanh không giữ người bệnh, họ bị bỏ mặc cho tới chết. Khi đó xác họ bị quấn vào bao bố, chở ra một khúc sông vắng rồi ném xuống.
Họ ra đi không tên tuổi, không người tiễn đưa. Chỉ có mặt nước sông đen ngòm khép lại như chưa từng có cô ấy trên đời. Lúc ấy linh hồn cô ấy mới được tự do, thơ thẩn tìm về gia đình nơi xa xôi…
Làn khói thuốc phiện mang lại cho Tam Hoàng lợi nhuận còn khổng lồ hơn nữa.
Dưới thời Pháp thuộc, thuốc phiện hợp pháp, chính quyền cho công khai buôn bán để thu thuế. Bên cạnh các tiệm có giấy phép còn hàng trăm tiệm hút chui, dù không nộp thuế cho nhà chức trách nhưng buộc phải nộp cho Tam Hoàng.
Một tiệm hút bình thường cũng có vài chục bàn hút. Với ánh đèn vàng vọt hắt lên gương mặt những con nghiện gầy sọp như bóng ma. Họ nằm dài trên giường tre, tay run run nhận từng bi thuốc, rồi cầm chiếc điếu bằng đồng cũ kỹ, rít một hơi thật sâu.
Tiếng “khịch” phát ra, khói len ra khỏi răng, chậm rãi tỏa thành lớp sương dày đặc, họ chìm vào cõi mộng mị…
Cả căn phòng nồng mùi á phiện, mùi mồ hôi của những con người đang mục ruỗng từ bên trong. Nhiều kẻ nghiện đến mức bán sạch gia sản, thậm chí bán cả vợ con để thỏa mãn cơn thèm. Khi đó, không còn ai là con người nữa, chỉ là những cái xác lơ mơ, sống bám vào làn khói trắng.
Chợ Lớn thời đó có khoảng 2.500 tiệm hút. Một bi thuốc giá 1 đồng, một tiệm phục vụ 50 con nghiện mỗi ngày thu 50 đồng, tổng một tháng 1.500 đồng, nhưng phải có 500 đồng chảy thẳng vào túi Tam Hoàng.
Không chỉ thu tô các tiệm hút, Tam Hoàng còn trực tiếp buôn thuốc phiện. Chúng thu gom hàng từ Lào, Thái Lan, Miến Điện… rồi tuồn về Chợ Lớn để phân phối cho hàng trăm tiệm hút. Chúng có cả một đội vận chuyển chuyên nghiệp và biết rõ: “Trạm nào dễ qua, trạm nào khó”, “phải nhét tiền cho ai”, “phải cúi đầu trước kẻ nào”…
Thuốc phiện được giấu trong thùng gạo, thùng bột, thậm chí nhét kĩ vào những pho tượng gỗ chạm trổ công phu. Bằng đủ mọi cách, miễn sao hàng được tuồn vào Chợ Lớn phục vụ con nghiện để Tam Hoàng kiếm tiền.
Có lần, cảnh sát Pháp chặn ghe chài chở gạo trên sông Sài Gòn. Khi lật lớp gạo lên cảnh sát phát hiện hàng trăm ký thuốc phiện giấu phía dưới. Ghe bị tịch thu, tài công bị bắt, bị đánh đập nhưng một mực không khai vì đó là hàng của Tam Hoàng. Viên thanh tra Pháp gầm lên:

- Chủ hàng là ai?
Với đôi mắt xưng húp, gã tài công lắp bắp:
- Ngộ chỉ nhận chở gạo… không biết thuốc phiện này từ đâu ra.
Gã bị tra tấn dã man. Móng tay bị rút, xương sườn bị đánh gãy, cơ thể rách nát như miếng giẻ rách, nhưng gã vẫn im lặng, không hé nửa lời. Cuối cùng, toà tuyên gã mức án 20 năm tù.
Vì sao trung thành tới vậy? Vì Tam Hoàng đã hứa:
- Nị ngồi tù, ngộ lo cho vợ con nị. Nhà nị không thiếu gạo, con nị được đi học, nhà cửa được sửa sang. Khi nị về, nị sẽ được lên vị trí cao hơn.
Lời của Tam Hoàng chưa bao giờ mất giá. Gia đình gã tài công được chu cấp đủ đầy trong suốt thời gian gã “đi xa”. Với cách đối đãi như vậy thì ai mà không sẵn lòng bán mạng.
Ngoài công chuyện “lầu xanh” và các tiệm hút, Tam Hoàng còn thâu tóm thế giới đỏ đen. Khi đó ở Chợ Lớn sòng bạc mọc lên như nấm. Từ những sới nhỏ trong hẻm tối chỉ có vài bàn sóc dĩa, tới những sòng bạc đèn đuốc sáng trưng, khói thuốc mù mịt, khách ra vào nườm nượp, tất cả đều phải đóng tô.
Với lĩnh vực này, Tam Hoàng không chỉ thu bảo kê mà còn trực tiếp điều hành nhiều sòng bạc lớn. Họ có quản lý, có các tay cờ bạc bịp làm nhà cái để móc túi con bạc. Một số sòng còn được trang bị chiêu trò gian lận tinh vi. Nào là bài được đánh dấu bằng mực vô hình, xúc xắc được chỉnh trọng lượng để đổ đúng mặt mong muốn, rồi bàn chơi có gắn nam châm để điều khiển kết quả…
Con bạc nào không phải “người trong nhà” bước vào gần như chắc chắn thua sạch. Có kẻ mất trắng cả gia tài chỉ sau một đêm lại còn mang món nợ khổng lồ từ trên trời rơi xuống. Có kẻ quẩn chí mà tự vẫn. Rồi người ta lại tìm thấy xác gã nổi lềnh bềnh trên sông Sài Gòn, trong túi chỉ còn mảnh giấy tuyệt mệnh.
Những thứ đó Tam Hoàng chẳng bận tâm. Với hội, những kẻ tự sát chỉ là quân tốt yếu đuối. Trong thế giới của Tam Hoàng, chỉ có một quy luật: “Kẻ mạnh sống – kẻ yếu chết”. Và chúng tin đó là quy luật tự nhiên.
***
Ngoài các nguồn thu trên, Tam Hoàng còn tham gia bắt cóc tống tiền. Dù nguồn thu đó không đều nhưng mang lợi nhuận khủng khiếp chỉ trong chớp mắt. Mục tiêu của chúng luôn được chọn kỹ, là những gia đình giàu có, đặc biệt là thương gia gốc Hoa nhiều tiền nhưng ít thế lực chính trị.
Trước khi ra tay, Tam Hoàng do thám kỹ lưỡng, nắm rõ con mồi có thân nhân giàu cỡ nào, nhà có bao nhiêu người, ai ra vào lúc nào, cảnh sát có thường xuất hiện gần đó không. Chúng theo dõi hàng tuần, ghi từng chi tiết nhỏ nhất. Khi chắc chắn không thể sai sót, chúng bắt đầu hành động.
Thông thường, chúng bắt cóc trẻ con trên đường đi học về hoặc khi đang chơi đùa ngoài ngõ. Một chiếc xe ngựa bất ngờ thắng gấp lại, vài gã lực lưỡng nhảy xuống bịt miệng đứa trẻ ẳm đi. Tiếng vó ngựa vang lên mặt đường, xe phóng đi như bay, người xung quanh chỉ kịp nhìn thấy đám bụi tung mù.
Đứa trẻ bị đưa đến nơi bí mật, đó là một căn nhà hoang ở ngoại ô hoặc một căn phòng tồi tàn trong khu ổ chuột không ai đặt chân tới. Chúng nhốt con tin trong phòng tối ẩm ướt, chỉ đưa đồ ăn vừa đủ cầm hơi.
Rồi lá thư tống tiền sẽ xuất hiện cho gia đình nạn nhân, thường được kẹp dưới cánh cửa hoặc gửi qua một đứa trẻ bán báo. Số tiền có thể từ 5.000 tới 50.000 đồng, tùy độ giàu có của khổ chủ, với vài dòng lạnh tanh:
- Báo cảnh sát, nó chết. Nộp không đúng hạn mỗi ngày nhận một lóng tay.
Hầu hết các khổ chủ đều chọn cách trả tiền. Họ chạy vạy khắp nơi, cầm nhà cầm cửa, vay mượn bằng mọi cách để cứu con. Khi Tam Hoàng bắt cóc thì sẽ không còn cách nào khác ngoài chung đủ tiền. Nếu báo cảnh sát chắc chắn con họ chỉ có chết.
Tại điểm hẹn ở một gốc cây già, một ngôi miếu hoang, một đoạn đường vắng, gia đình đặt túi tiền xuống rồi rời đi như lời dặn rồi đứa trẻ được thả. Tam Hoàng luôn giữ lời.
Cũng có những trường hợp gia đình không lo đủ tiền, hoặc cố tình câu giờ, hy vọng cảnh sát can thiệp. Lúc đó, Tam Hoàng không hề nương tay, sẽ cắt từng lóng tay của đứa bé, bỏ vào phong bì gửi cho gia đình với dòng chữ bằng máu khô: “Tiền đâu?”. Nếu vẫn chậm trễ, cái chết là điều không tránh khỏi. Nạn nhân sẽ bị giết chết rồi vứt xác xuống sông.
Tất cả những nguồn thu này hợp lại, tạo thành đế chế tài chính khổng lồ. Ước tính mỗi tháng Tam Hoàng thu về hơn 1 triệu rưỡi đồng bạc Đông Dương. Một con số khiến cả chính quyền Nam Kỳ phải giật mình.
Tiền được chia theo cấp bậc, trong tổng số tài chính đổ về Tam Hoàng, Sơn Chủ hưởng 30%, Phó Sơn Chủ và các Hương Chủ nhận 20%. Phần còn lại dùng để nuôi quân, mua vũ khí, hối lộ quan chức, mở rộng địa bàn…
Với nguồn tiền dồi dào như suối, Tam Hoàng trở thành thế lực bất khả xâm phạm ở Chợ Lớn. Chúng mạnh hơn cả chính quyền địa phương vì chúng có tiền, có tay chân, và quan trọng nhất… Chúng có sự tàn độc mà chính quyền không bao giờ dám có.
(Mời quý vị đón xem kỳ 6)

Doanh nhân Lưu Ngọc Long Thanh - người phụ nữ quyền lực của Vietbamboo và dự án mở hãng hàng không tại Việt Nam
Kiều Nguyễn Phương Duy - Chàng trai nhẹ nhàng nhưng sâu lắng
Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty cổ phần Golden Dragon Corporate quý phái,sang trọng tại lễ ký kết xây dựng dự án bệnh viện
Lễ công bố Quyết định và trao Giấy chứng nhận kiểm định chất lượng cấp cơ sở giáo dục
Doanh nhân hát hội tụ dàn thí sinh đầy tiềm năng
“Nàng tiên cá” đến vương quốc Thái Lan
Câu lạc bộ Doanh nhân Bạc Liêu – Cà Mau tại Thành Phố Hồ Chí Minh họp mặt ‘Cà phê Đồng hương’ lần 2
Lê Ngọc Trinh thử sức với lĩnh vực mới
Giao lưu ra mắt bút ký ‘Làm sao để khôn ngoan hơn trong đường đời’
Thành Lập Câu Lạc Bộ Doanh Nhân Bạc Liêu – Cà Mau Tại Thành Phố Hồ Chí Minh